Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008

Kính thông báo


Kể từ lúc này, xin trân trọng mời Quý Đạo Hữu, Đạo Tâm vui lòng vào trang blog Thánh thất Bàu Sen tại link sau đây, có đầy đủ bài vở và hình ảnh hơn:

http://bausen.multiply.com

Ở VN, có thể đôi lúc hơi khó vào trang blog của Bàu Sen tại multiply.com như nói trên. Xin Quý Vị hoan hỷ quay trở lại vào một lúc khác sau đó, sẽ vào được dễ dàng. Đây là sự hơi “bất tiện” của multiply.com. Nhưng “bù” lại, nó có những tính năng mà các chỗ cung cấp blogs tại mấy nơi khác dường như không có.

Kính mong Quý Vị thông cảm, và chân thành cảm tạ tất cả Quý Đạo Tâm, Đạo Hữu.

Kính chúc Quý Vị một năm mới 2008 An Lạc trong Hồng Ân của Thầy Mẹ.

Bàu Sen, tháng 1-2008.

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2008

TƯỞNG NIỆM CÔNG ĐỨC CỦA CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ


CHÍ TÍN

Hằng năm, trên hoàn cầu thế giới, phần đông nhơn loại đều làm đại lễ kỷ niệm Đức Chúa Giê-su Ki-tô giáng trần. Cao Đài Giáo cũng xem ngày này thiêng liêng như ngày lễ Phật Đản nên các thánh thất, thánh tịnh đều làm lễ tưởng niệm công đức của Đấng Chúa Cứu Thế, Đấng đã hy sinh mạng sống, chịu đổ máu để chuộc tội cho thiên hạ và chỉ nẻo về nước Thiên Đàng cho con người được sống với Đức Chúa Trời, tức là Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này.

Không những làm đại lễ kỷ niệm mà chúng ta còn ý thức sứ mạng cao quý của Ngài để noi theo gương Ngài, làm theo lời dạy của Ngài trong tinh thần tự giác, giác tha. Thay vì mê ngủ trong đêm đông lạnh giá, chúng ta hãy thức tỉnh tâm linh, tìm đường trở về cùng Thượng Đế và hãy đem hột giống tốt lành của Đạo gieo rải khắp nơi hầu làm tròn sứ mạng của một dân tộc được chọn trong thời kỳ này.

Nếu chỉ hành lễ kỷ niệm suông mà không ý thức được sứ mạng Thượng Đế đã giao cho dân tộc chúng ta, là chúng ta làm buồn lòng Ngài cũng như không làm đẹp dạ các đấng giáo chủ, đạo tổ mỗi khi chúng ta thiết lễ kỷ niệm các đấng và nhất là đối với những bậc Tiền Khai Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ:

“Đành rằng người tiếp nối đi sau dĩ nhiên có bổn phận là nhắc nhở tôn thờ. Điều quan trọng để nhớ ơn và thể hiện tinh thần. Người tiếp nối phải làm thế nào để người ra đi không hờn tủi vì chưa ai biết đến cái kỳ vọng để đạt đến tiêu đề thâm diệu của tâm hồn mình qua những việc đã làm lúc hiện tiền. Đó mới chính là bổn phận của những ai đi sau.” [1]

Huống chi, đối với một Đấng Chúa cứu thế của muôn loài, con một Đức Chúa Trời mà sự hy sinh vô tiền khoáng hậu của Ngài tự cổ chí kim chưa hề thấy đặng người thứ hai, nếu chúng ta vô tình trước sứ mạng cao cả của Ngài thật là một điều vô ý thức vậy.

Chúa Giê-su Ki-tô là một vì thiên sứ cũng như các hàng giáo chủ, Tam Giáo Đạo Tổ ở Á Đông. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trước Ngài 658 năm, Đức Lão Tử trước ngài 600 năm và Đức Khổng Tử trước Ngài 551 năm, đều thừa thiên lệnh của Đức Chí Tôn Thượng Đế giáng trần khai các mối đạo Thích, Lão, Nho để giác ngộ người đời hồi đầu hướng thiện mà trở về cùng Thượng Đế Cha Trời.

Khác hơn các Đấng ấy, Chúa Giê-su chịu hy sinh xuống thế trong gia cảnh nghèo khó, không như thái tử Sĩ Đạt Ta[2] sanh ra trong lầu son điện ngọc của hàng vương giả. Chúa Giê-su chịu làm con của một người thợ mộc tầm thường, không danh vọng, không quyền tước. Ngài lại chịu sanh ra một cách cơ cực nằm trong máng cỏ ở hang đá giữa đêm đông giá lạnh lùng vì cha mẹ Ngài không tìm ra được nhà trọ. Lúc bé thơ cha mẹ Ngài phải bồng Ngài đi trốn tránh vì vua Hê-rô-đê muốn tìm giết Ngài. Đến tuổi trưởng thành đi truyền đạo, phải chịu lắm gian lao, vô cùng khốn khổ mà Ngài vẫn vững một lòng thiết thạch tin nơi sứ mạng Chúa Cha đã giao phó để dìu dẫn các bầy chiên đang lầm lạc. Cuối cùng, Ngài thọ nạn, chịu kẻ nghịch hành hạ cơ thể đau đớn mà vẫn không rên siết oán than, không thù nghịch loài người bạc bẽo và phản bội.

Xót xa nhứt là chúng xử tội một Đấng Cứu Thế bằng cách hèn hạ tủi nhục nhất chỉ dành cho những kẻ tội đồ trộm cướp, là đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Tội gì? Chỉ vì Ngài xưng mình là con của Đức Chúa Trời và truyền ra lời dạy của Đức Chúa Trời. Hỏi vậy, trên thế gian này từ cổ chí kim, đã thấy được người thứ hai chưa? Ôi thật là cao cả thay cho đức hy sinh cùng tột! Thật là vinh quang hiển hách cho Đức Chúa Giê-su Ki-tô. Cái chết của Ngài làm sáng danh Ngài đời đời kiếp kiếp. Tất cả nhơn loại trên thế gian, chí đến kẻ thù Ngài, cũng đều khâm phục và yêu thương kính trọng Ngài vô biên!

ÔN HỌC KINH THÁNH TÂN ƯỚC

1. Của cải vật chất ở thế gian phải hư hoại, khi chết bỏ lại hết. (Không khác thuyết vô thường hữu hình hữu hoại của Phật Giáo.)

“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó. (Mát-thêu 6 : 19-20)

“Không ai có thể làm tôi hai chủ,[3] vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.

“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học, chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết, ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? […] Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mát-thêu 6: 24-34)

Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa.” (Mát-thêu 19: 23-24)

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được.” (Lu-ca 16 : 13); “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mát-thêu 16: 26)

Vậy Chúa dạy hãy làm phúc bố thí cho kẻ nghèo, vì việc lành là của đời đời, là kho báu trên trời (Lu-ca 11: 41; 12: 33), không khác nào Phật dạy phải bố thí, hay Đức Cao Đài Thượng Đế dạy làm công quả lập đức vậy. Chúa lại dạy cách bố thí như sau:

Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. (Mát-thêu 6: 3-4)

2. Về sự thương yêu, khoan dung tha thứ

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13: 31-35)

Đức Chúa Trời tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát trong Tam Kỳ Phổ Độ cũng dạy: “Thầy là Cha của sự thương yêu.” Thầy còn dạy: Nếu các con không đủ sức thương yêu thì đừng ghét nhau, nghe à!

Ðừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Ki-tô.” (Ê-phê-xô 4: 31-32)

Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” (Mát-thêu 6: 14-15)

Chúa không chứng sự cúng kiến nếu chúng ta còn bất bình nhau:

“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mát-thêu 5: 23-24)

Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì anh hãy cho; ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi.” (Mát-thêu 5: 39-42)

“Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? […] Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện.” (Mát-thêu 5: 47-48)

3. Xét mình đừng xét người

Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn’, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.” (Mát-thêu 7: 1-5)

Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta…” (Mát-thêu 7: 12)

4. Đức bác ái

Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Ðức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (I Cô-rin-tô 13: 1-13)

*

Đức Chúa Giê-su Ki-tô đến thế gian cũng vì sứ mạng, lãnh lịnh của Đức Chúa Cha Trời, để cứu thế.

Các bậc giáo chủ, đạo tổ ngày xưa giáng trần cũng thừa thiên lệnh, để cứu dân độ thế.

Ngày nay, Đức Chí Tôn mở Đạo cũng vì đức háo sanh muốn tận độ chúng sanh, chọn dân tộc Việt Nam để trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Giê-su cho là vinh hạnh lớn lao, một hãnh diện to tát. Chúa dạy:

“Hỡi dân tộc được chọn! Hỡi dân tộc được thương yêu! Này chư hiền, quốc gia này còn tan tác là dân tộc này chưa vừa ý trong sứ mạng của Thượng Đế Chí Tôn. Một hân hạnh lớn lao, một hãnh diện to tát. Chư hiền được đem ra từ một dân tộc của một quốc gia trong muôn vàn quốc gia mà Đại Từ Phụ điểm nhuận.

“Trách vụ cam go chỉ giao cho người chí khí. Mọi thử thách sẽ định giá cho thành quả của sự vụ mai sau.

“Ta nói với chư hiền: Chính sự giày vò của tâm tư, sự nhọc nhằn của thể xác, sự gò ép, sự chết chóc sẽ điểm đạo cho hàng Thiên mạng.

(...) “Hỡi dân tộc được hiến dâng! Đừng mê ngủ, đừng say đắm, đừng mơ màng trong bóng tối đêm đông. Hãy bừng tỉnh, hãy đợi chờ ánh xuân quang đến khi không ai ngờ đến.”

(...) “Cái lạnh lùng, nó ru ngủ con người trong mê dại để rồi đi vào cõi chết. Chỉ có những kẻ tỉnh mới thoát khỏi quyến rũ của giá lạnh đêm đông.”

(...) “Chư hiền nên lưu ý: Sứ mạng vẫn là sứ mạng. Kẻ được chọn vẫn là kẻ được chọn. Nên lấy quá khứ để làm đà tiến, đem hiện tại để làm phương tiện, lấy tương lai làm cứu cánh. Càng bão tố phũ phàng càng biểu dương tinh thần của kẻ vững lèo vững lái. Sự nhứt tâm trong sứ mạng, sự đoàn kết trong thực hành sẽ giúp chư hiền vượt qua muôn ngàn thử thách. Đừng dại dột phân tranh trên phi cơ khi gió loạn. Ngoại cảnh phũ phàng, nội bộ điên nguy sẽ đua nhau nhận chư hiền đắm chìm trong phong đô hỏa ngục.

Hỡi chư hiền! Hãy thương những người đi trước chư hiền, vì đó mới có vết chân đi trước. Hãy thương những bậc đi sau chư hiền, vì đó mới có vết chân đi sau. Nhạc trùng dương không bao giờ dứt, vì mọi làn sóng cứ kế tục theo nhau ngày đêm chẳng cách ngăn rời rạc.

“Cuối cùng, Ta muốn nói với chư hiền về Thiên mạng vi nhơn là hãy làm con chiên khôn ngoan hơn là người chăn chiên u tối.

Giá rét nào không trở lại mùa Đông, sứ mạng nào không trao cho người đã chọn.

Việt Nam ơi! Hồng Lạc ơi!

Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị.[4]

CHÍ TÍN

Mùa Giáng Sinh 1974

[1] Thánh thất Nam Thành, 23-8 Canh Tuất (22-9-1970).

[2] Nhưng sau này thái tử Sĩ Đạt Ta lại lìa bỏ ngôi báu, vào rừng tu khổ hạnh biết bao gian khổ.

[3] Ý nói phải làm tôi một mình Chúa, còn của cải thì dùng nó chứ đừng làm tôi tớ nó.

[4] Thánh thất Bàu Sen, 23-11 Đinh Mùi (24-12-1967).

SUY NGHIỆM VỀ LỄ GIÁNG SINH



HOÀNG MAI

Hơn hai ngàn năm trước, vào một đêm đông giá lạnh, khi vạn vật còn lặng chìm trong màn đêm tĩnh mịch, mọi người đang say sưa trong giấc nồng. Chúa Hài Nhi đã ra đời trong máng cỏ tại Bê-lem, thuộc xứ Giu-đê, thành Đa-vít bên cạnh Mẹ Ma-ri-a, dưỡng phụ Giu-se và các con chiên hiền lành.

Trước ngày Chúa Hài Nhi ra đời, sứ thần đã loan báo: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.” (Lu-ca 1: 30-31)

Sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mát-thêu 1: 21)

Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô. Ki-tô tức là Khristos (tiếng Hy Lạp), dịch từ Messiah (tiếng Hebrew) nghĩa là đấng được xức dầu. Theo tín ngưỡng dân Do Thái, đấng được xức dầu cũng là đấng được thánh hiến, được Thiên Chúa tuyển chọn với sứ mạng đem hạnh phúc đến cho họ.

Khi hành lễ người Công Giáo thường xưng tụng “Emmanuel” nghĩa là “Chúa ở cùng chúng ta” để chỉ tình yêu Chúa luôn luôn gắn bó với con người.

Xuất phát từ tình yêu vô biên vô tận, Chúa Giê-su đã đến với con người một cách âm thầm lặng lẽ giữa đêm khuya với hiện thân một hài nhi bọc tã nằm trong máng cỏ đơn sơ, nghèo nàn trong tiết đông thiên băng giá lạnh lùng. Để kỷ niệm và tôn vinh ngày Chúa giáng sinh, từ thế kỷ thứ Tư Giáo Hội La Mã đã ăn mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng Chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí. Vấn đề đặt ra ở đây là Chúa ra đời vào mùa đông, tiết Đông Chí hàm chứa ý nghĩa gì?

Đông Chí và ý nghĩa tiềm phục

Theo bác sĩ Nguyễn Văn Thọ trong Chu Dịch Giảng Bình:

- Xét về phương diện Dịch số, ngày Đông Chí là ngày mà vầng dương như dừng gót lại để trở về sống gần gũi với trời đất và vạn vật hơn, bỏ bộ mặt lạnh lùng để mặc lấy một hình dung, một thái độ đầm ấm hơn.

- Đông Chí ứng theo Dịch lý là quẻ Phục.

Về phương diện tiết khí, quẻ Phục là lúc sinh khí phục hồi trong ngày Đông Chí, khi mà vạn vật trên mặt đất như đang muốn chết cóng vì gió sương, băng tuyết thì ở dưới lòng đất dương khí phục sinh để chuẩn bị cho trần gian một mùa xuân mới, đem cho vạn vật một nguồn sinh khí mới.

Về phương diện tâm linh, quẻ Phục là thời kỳ con người quay về quan sát lòng mình để trở nên minh linh, giác ngộ, biết trong lòng mình sẵn có Trời – như Thánh Augustino nói “Chúa ở trong con còn sâu hơn con ở trong con.” – và nhất là thấy được tấm lòng trời đất bao la (phục kỳ kiến thiên địa chi tâm).

Chúa đến với con người để thể hiện tình yêu của mình qua Chúa Hài Nhi giáng sinh vào đêm Đông, vào mùa phục để hứa hẹn một vận hội hanh thông sắp mở màn, một chương trình cứu độ của Chúa sắp thực thi.

- Mùa Đông là phục của một năm. Đêm trường tĩnh mịch là lúc phục của một ngày. Con người trọng ở chỗ biết phục; phục cốt ở chỗ tĩnh; tĩnh rồi mới có thể cảm thông, hòa hài với vũ trụ, đất trời.

Thanh tĩnh là yếu tố hiệp thông với Thiên Chúa

Chúa Hài Nhi ra đời trong:

Đêm thanh tĩnh mịch như tờ,

Gió hiu hiu thổi, tuyết mờ mờ bay.

Chính cái cảnh đêm khuya tối tăm mới làm nổi bật ánh sáng chói ngời của vầng thiên điển vinh quang Thiên Chúa tỏa ra. Chính cảnh đêm tối mịt mờ mới thấy giá trị của ngôi sao trời đưa đường dẫn lối cho ba đạo sĩ (ở đây hiểu là ba chiêm tinh gia vì các ngài nhìn và đoán được ý nghĩa của sao trời). Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo, từ phương Đông đến tìm Chúa Hài Nhi để lễ bái với niềm tin vua Do Thái, Đấng cứu độ của nhân loài vừa xuất hiện. Chứng tỏ thiên hạ đang trông chờ đấng cứu thế sắp đến và cuộc cứu thế của Chúa sẽ rộng lan khắp nơi.

Đêm tối thanh tĩnh không những làm rõ sự soi sáng của sao trời, mà còn làm vang động khắp nơi những lời hát tán dương vinh quang của đội binh Thiên quốc đến chúc tụng Chúa ra đời.

Đêm khuya thanh tĩnh cũng là lúc tâm tư của con người lắng đọng. Chính lúc đó là giao điểm để con người và Trời gặp gỡ nhau tượng trưng qua thiên thần của Thiên Chúa hiện xuống gặp các mục đồng là những người địa vị bé thấp trong xã hội, làm nổi bật lòng thương yêu và thể hiện đức khiêm tốn của Thiên Chúa để chúng ta noi theo.

Sau nầy Đức Giê-su thường hay một mình lên núi đêm khuya hoặc tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện Chúa Cha, vì sự yên tịnh vắng vẻ bên ngoài tạo điều kiện cho sự yên lặng bên trong nội tâm chúng ta.

Thế nên Đức Chí Tôn có dạy: “Yên lặng tức là quán triệt tất cả những cái gì mà trần gian không nói được, không nghe thấy được. Yên lặng để điều ngự khỏi truân chuyên, yên lặng để chuyển phong ba trở thành bình địa. Sự yên lặng để thần giao cách cảm, để các con tìm thấy con trong Thầy và Thầy hằng ngự trị với đức hiếu sinh trong vạn vật.” *

Đức hiếu sinh của Thượng Đế đã thể hiện một cách cụ thể là Ngài đã cho con một của Ngài xuống thế gian trong cảnh nghèo nàn nhất của con người nơi trần thế. Nơi Chúa Giê-su hài nhi đã thể hiện “Sự hợp nhất giữa bản tính cao cả thần linh và bản tính thấp kém của nhân loại, và điều đó vì mục đích cứu thế.” [1]

Giáng sinh trong nghèo nàn là tình yêu của Thiên Chúa

Chúng ta thử suy nghiệm hình ảnh Chúa Hài Nhi quấn tả, nằm trong máng cỏ trong tiết Đông thiên lạnh lùng băng giá. Có sự sống nào yếu đuối, mong manh như một hài nhi mới sanh ra đời, chỉ đủ sức để khóc và để bú mà thôi? Thế mà sự sống mong manh yếu đuối ấy được ra đời trong sự éo le của hoàn cảnh cha mẹ không tìm được chỗ trọ đêm ở Bê-lem trên đường di tản về nguyên quán, và trong sự khắc nghiệt của thời tiết đêm Đông. Mùa Đông tuyết phủ khắp nơi, mọi người đều quây quần bên lò sưởi hay nằm co trong những chiếc áo bông dày cộm, trong nệm ấm chăn êm, trong khi Chúa Hài Nhi chỉ có miếng tả bọc thân, đặt trong máng cỏ, bên mẹ Ma-ri-a và dưỡng phụ Giu-se. Những nhân chứng đầu tiên đến mừng sự ra đời của Ngài là những mục tử nghèo hèn, vô danh tiểu tốt, không được xã hội coi trọng. Đây là một bắt đầu cho cuộc cách mạng của Chúa Giê-su, đưa con người trở về nhân vị, nhân phẩm và cuối cùng là trở về hiệp thông với Thiên Chúa hằng sống.

Quả thật, đời sống của Chúa là yêu thương là gần gũi với những trẻ thơ yếu đuối, những người nghèo hèn, những người tội lỗi, kể cả những con người bị xã hội rẻ khinh như những cô gái bán phấn buôn hương, cũng đều được Ngài quan tâm giúp đỡ.

Đặc biệt, trước lễ Vượt Qua, tức là trước ngày Chúa tử nạn, Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ của Ngài để nhắc nhở các môn đệ thực hiện đức khiêm tốn trong việc phục vụ tha nhân, tức là tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và thương yêu lẫn nhau bằng cách rửa chân cho nhau. Tình yêu của Ngài xuất phát từ con tim nhân từ, đầy lòng bác ái được thể hiện qua lời dạy của Thánh Phao-lô: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa; vui với người vui, khóc với nguòi khóc.” (Rô-ma 12: 14-15) [2]

Ngài khóc vì thương yêu chúng sanh, những giọt lệ Ngài không chỉ tuôn rơi trên đôi mắt yêu thương nhân loại của Ngài, mà còn tuôn rơi bằng những giọt máu hồng từ trong trái tim nhân ái, khi thọ cực hình để chuộc tội cho nhân loại. Ngài đã giáng cơ dạy như sau:

. . . Vì thương nhân loại Chúa Cha công bình.

Dụng con một hy sinh xuống thế,

Chuộc tội chung toàn thể nhân loài,

Thân ta bao quản đắng cay,

Máu hồng chuộc tội cứu rày nhơn sanh.

Thập tự giá thân đành chịu đóng,

Ta chết vì sự sống loài người,

Chết vì công nghĩa trên đời,

Chết vì sứ mạng Cha Trời phó giao.

Ta chịu đổ máu đào chuộc tội,

Cho nhân loài tự hối ăn năn,

Hồi tâm hướng thiện quy căn,

Trở về Đạo chánh hóa hoằng nhơn tâm.[3]

Nước mắt chúng sanh tuôn rơi trên dòng bể khổ. Ngày nào nước mắt chúng sanh còn rơi là ngày ấy Ngài vẫn không yên lòng ngự nơi cõi Thiên Đàng.

Nhân loại ngày nay hãy còn nhiều đau thương nên Ngài vẫn đến với chúng ta. Những ngôi sao ngày xưa soi sáng trên vòm trời Bê-lem, giờ đây vẫn hiện diện soi sáng thế giới. Thế mà vẫn còn nhiều dân tộc phải chịu thương đau của cảnh chiến tranh giày xéo, người bóc lột người, do chưa học thuộc và thực hành bài học thương yêu quý giá.

Chúng ta hãy cùng lắng nghe lời dạy tha thiết của Ngài:

Ta đến với một mùa Đông đầy giá rét,

Để hy sinh cứu rỗi cho nhân loài,

Ta lại đến trong cơn lửa bỏng dầu sôi,

Để cất tiếng từng hồi gọi đàn chiên lạc lõng.

Chúa Cứu Thế muôn đời còn mãi sống,

Sống muôn đời và sống mãi muôn đời,

Việt Nam ơi! Hồng Lạc ơi!

Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị.[4]

Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị trong Kỳ Ba để một lần nữa đem con người trở về sự bình an trong tình yêu thương chân thật.

Ngày xưa Chúa Giê-su đã: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, / Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lu-ca 2: 14) Ngày nay Ngài vẫn tiếp tục dẫn dắt đoàn người sứ mạng thực hành sự thương yêu đem đến sự bình an thật sự cho con người. Ngài dạy:

“Con người vô tình hoặc cố tâm đánh mất giá trị tinh thần bằng khả năng vật chất. Sự phá giá tinh thần đang tràn ngập ở mọi chiều hướng, mọi tư duy. Người tôn giáo thật sự không khỏi chau mày cho cuộc đời đen tối sắp đến.

“Cái an lạc và thanh bình không tự do nơi nào đem đến, chỉ có bản thân cùng tâm linh mỗi cá nhan gầy dựng khi khai triển đúng mức. Trong khi tâm thần con người đang hồi băng hoại thì biến cố vật chất càng mạnh mẽ thêm. Sự chia rẽ là một căn bịnh nan y, khó mà tìm được thần y hàn gắn lại, chỉ có phương pháp của Cha ta ban cho: thương yêu siêu việt mới đủ điều kiện giải thoát con người ra khỏi chứng bịnh hiểm nghèo đó. Chia rẽ phân cách là kết quả của lòng ngã chấp mà tự bao giờ cho đến bây giờ nền giáo dục đời cũng như tôn giáo đã lợi dụng, triệt để nhồi nắn con người trở thành công cụ. Cái thiên lệch của giáo dục đóng khung, cái thôi miên lợi dụng theo thời gian tạo một sợi dây vô hình buộc con người trong bối cảnh của cuộc đời và bối cảnh tôn giáo. Hưởng thụ nền giáo dục ấy là hậu quả của sự kiện phân tranh.

“Ngày nay khi con người thốt lên một tư tưởng, một ý định, cứ cho rằng đó là một tự do tự quyết, nhưng thực tế cái mầm nô lệ còn phủ trùm nền giáo dục trên con người mà chủ thể không hay không biết, không biết đâu phải là không có...

“Ta muốn bảo, thương yêu là cái thuần khiết, du lưu trong mọi thời, trong mọi sự kiện, chớ không phải tôn ngôi thương yêu lên thần thánh cách biệt con người và vạn loại.

“Quả thật ta không bảo chư hiền hằng ngày bái lạy sự thương yêu mà không thực hành thương yêu.” [5]

Qua lời dạy trên, con người chỉ có bình an khi trở về nhân bản là nguồn gốc của con người. Về nguồn gốc thiêng liêng, mỗi người đều có Thượng Đế Tính từ gốc Thượng Đế phát ban. Con người chỉ bình an khi đáp ứng và quân bình được nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần, xoá bỏ giai cấp, xóa bỏ cảnh người bóc lột người và tôn trọng sự sống con người trong sự an lạc và tiến bộ. Con người chỉ bình an khi sống trong một quốc gia mà chính quyền lấy sự công bình, công chính làm đường lối và đức hy sinh làm phương tiện và tình yêu làm cứu cánh như lời dạy sau đây của Đức Chúa:

Chính ta đã hiến mình thọ khổ,

Cho loài người biết rõ công bình,

Dù rằng Giáo Chủ toàn linh,

Cũng do cái luật công bình mà thôi.

Nước Locride có người Hoàng đế,

Luật công bình xử chế nghiêm minh,

Ban ra chỉ dụ triều đình,

Phạm pháp móc mắt, luật hình không sai.

Tội phạm trước không ai đâu lạ,

Là con vua sang cả hoàng thân,

Zénécus khó định phân,

Nỗi lòng bất nhẫn trước cân công bình.

Đành lặng lẽ tự mình móc mắt,

Mắt của mình và mắt của con,

Đôi tròng đủ trước bệ son,

Cho nghiêm phép nước cho còn tình thương.

Ta là một trong trường nhơn loại,

Cùng thế gian Ta phải gánh gồng,

Thà cam chịu đổ máu hồng,

Gương hy sinh để nhắc lòng hy sinh.[6]

Con người chỉ bình an khi mọi tôn giáo của nhân loại không còn tranh chấp, rẽ chia. Sở dĩ xã hội nhân loại gặp cảnh dầu sôi, lửa bỏng cũng do sự bất hòa từ sự việc nhỏ lần lần lan rộng đến sự việc lớn. Thế nên, con người tôn giáo chơn chánh là ngọn đuốc soi tỏ trong đêm tối, dẫn dắt nhân sanh ra khỏi cảnh hố sâu vực thẳm của tình đời. Muốn được thế, con người tôn giáo cần mở rộng tầm hướng suy tư để cho tôn giáo có sự tôn trọng lẫn nhau.

Trở lại với sứ mạng của dân tộc được chọn, Đức Giê-su đã ân cần dặn dò:

“Hỡi dân tộc được chọn! Hỡi dân tộc được thương yêu! Này chư hiền nam nữ! Quốc gia này còn tan tác là dân tộc này chưa vừa ý trong sứ mạng của Thượng Đế Chí Tôn.

“Một hân hạnh lớn lao, một hãnh diện to tát, chư hiền được đem ra từ một dân tộc của một quốc gia trong muôn vàn quốc gia mà Đại Từ Phụ điểm nhuận. Trách vụ cam go chỉ giao cho người chí khí. Mọi thử thách sẽ định giá cho thành quả của sự vụ mai sau.

“Ta nói với chư hiền: Chính sự giày vò của tâm tư, sự nhọc nhằn của thể xác, sự gò ép, sự chết chóc sẽ điểm đạo cho hàng Thiên mạng. Xem gương Ta đi trước mà mạnh bước vượt qua rừng sầu bể khổ. Ta đến với nhơn sinh trong đau khổ lạnh lùng, đem thân mình hòa đồng trong băng tuyết, trong gió rét đêm đông.

“Có người đã bảo chư hiền: Không vào tận hang cọp làm sao bắt được hùm con. Ta lại nói: Chỉ có đem mình vào bể khổ mới cứu vớt sự đắm chìm của nhân loại.

“Hỡi chư hiền của dân tộc được chọn! Sứ mạng mà chư hiền được Chí Tôn giao phó, không phải là người vun phân, mà là người gieo giống. Sự quan trọng không phải những điều kiện khởi phát mà là mầm khởi phát.

“Kìa xem quá khứ, hiện tại và tương lai. Có bao giờ Ta ngự trên ngai vàng vua Do Thái. Chính cái ngai vàng Đa-vít đã vùi chôn về cho Đa-vít, mà cái tâm tư của nhân sinh âu vẫn là ngai vàng bất diệt. Hãy noi gương ta mà hành tròn sứ mạng.

“Hỡi dân tộc được hiến dâng! Đừng mê ngủ,đừng say đắm, đừng mơ màng trong bóng tối đêm đông. Hãy bừng tỉnh, hãy đợi chờ ánh xuân quang đến khi không ai ngờ đến.

“Sứ mạng của kẻ chăn chiên trong mùa đông là canh chừng. Phải hiền từ hơn tất cả kẻ hiền từ, phải khôn ngoan hơn tất cả sự khôn ngoan. Cái lạnh lùng nó ru ngủ con người trong mê dại để rồi đi vào cõi chết. Chỉ có những kẻ tỉnh mới thoát khỏi quyến rũ của giá lạnh đêm đông.

“Kìa đàn chó sói đói khát đang rình rập chư hiền và đàn chiên trong mọi lối. Hãy cố gắng lên! Lấy sức mạnh của người được đặt để, đem dũng cảm của người dọn đường mà hành đạo.

“Chư hiền nên lưu ý: Sứ mạng vẫn là sứ mạng. Kẻ được chọn vẫn là được chọn. Nên lấy quá khứ để làm đà tiến, đem hiện tại để làm phương tiện, lấy tương lai làm cứu cánh. Càng bão tố phũ phàng, càng biểu dương tinh thần của kẻ vững lèo vững lái. Sự nhứt tâm trong sứ mạng, sự đoàn kết trong thực hành sẽ giúp chư hiền vượt qua muôn ngàn thử thách.

Đừng dại dột phân tranh trên phi cơ khi gió loạn. Ngoại cảnh phũ phàng, nội bộ điên nguy sẽ đua nhau nhận chư hiền đắm chìm trong phong đô hỏa ngục.

Hỡi chư hiền! Hãy thương những người đi trước chư hiền, vì nhờ đó mới có vết chưn đi trước. Hãy thương những bực đi sau chư hiền, vì nhờ đó mới có vết chưn đi sau. Nhạc trùng dương không bao giờ dứt vì mọi làn sóng cứ kế tục theo nhau ngày đêm chẳng cách ngăn rời rạc.

Cuối cùng ta muốn nói với chư hiền về Thiên mạng vi nhân. Hãy làm con chiên khôn ngoan hơn là làm người chăn chiên u tối. Giá rét nào không trở lại mùa Đông, sứ mạng nào không trao cho người đã chọn.” [7]

*

Qua một vài suy nghiệm về lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe lại những lời Chúa dạy đầy thương yêu, tha thiết. Chúa nhắc nhở chúng ta hãy làm tròn sứ mạng của dân tộc được chọn. Để cảm tạ tình yêu của Ngài, không gì hơn thành tâm hướng về Đức Giê-su với tâm nguyện hiến dâng thực hành theo ý Chúa, theo nguyện vọng Đức Cao Đài qua lời Thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mỗi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nguy nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng. Để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu.”

HOÀNG MAI

[1] Linh mục Đinh Văn Trung, Chiêm Ngưỡng Thầy Chí Thánh.

[2] Linh mục Đinh Văn Trung, Chiêm Ngưỡng Thầy Chí Thánh.

[3] Thánh thất Bình Hòa, 16-8 Canh Tuất (16-9-1970).

[4] Thánh thất Bàu Sen, 23-11 Đinh Mùi (24-12-1967).

[5] Thánh thất Bàu Sen, 17-11 Kỷ Dậu (25-12-1969).

[6] Huờn Cung Đàn, 03-02 Ất Tỵ (05-3-1965).

[7] Thánh thất Bàu Sen, 23-11 Đinh Mùi (24-12-1967).

CHÚA KI-TÔ NGÀY XƯA VÀ CHÚA KI-TÔ NGÀY NAY


HUỆ Ý

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Thời đại hội thông của tất cả tôn giáo. Tôn giáo là cửa vào tìm Đạo. Chúng ta có thể tìm Đạo bằng cánh cửa nào cũng được: cửa Phật Giáo, cửa Lão Giáo, cửa Nho Giáo, cửa Ki-tô Giáo. Ngày nay lại có một cánh cửa đặc biệt, cửa Tam Kỳ Phổ Độ, cửa Đại Đạo, hễ vào cửa này cũng tương tự như bước qua tất cả các cửa khác. Cho nên, người tín hữu Đại Đạo: Tháng 2 âm lịch: kỷ niệm Đức Thái Thượng Đạo Tổ (Lão). Tháng 4 âm lịch: kỷ niệm Đức Thích Ca Mâu Ni (Phật). Tháng 8 âm lịch: kỷ niệm Đức Khổng Thánh (Nho). Tháng 12 dương lịch: kỷ niệm Đức Da Tô Giáo Chủ (Chúa).

1. Chúa Ki-tô ngày xưa

Vào mùa đông xa xưa, có một vì sao lạ mọc trên bầu trời Bê-lem, chính lúc đó một tin mừng cho toàn thể nhân loại được thiên sứ loan báo, đó là: “Thiên Chúa làm người để cho mọi người sẽ trở nên Thiên Chúa.” (Thánh Athanasius). Đấng Thiên Chúa làm người ấy là Chúa Ki-tô.

Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa lựa chọn người nữ thánh thiện để tạm ngụ, đó là Mẹ đồng trinh Ma-ri-a, Thiên Chúa trao phó trách nhiệm săn sóc tuổi thơ ấu của mình cho người nam trung tín, hiền hòa, người nam ấy đã trở nên Thánh Giu-se.

Thiên Chúa làm người, Ngài đã lâm trần trong thân phận thấp hèn nhứt: Chào đời ở một máng cỏ trong hang đá, lớn lên lại làm việc trong một trại mộc. Rồi ngọn lửa thiên chân trong Ngài vụt sáng thành ánh đuốc vĩ đại, Ngài bước đi và hướng dẫn muôn dân.

Muôn dân khổ, Chúa Ki-tô khóc (Gioan 11: 36). Chúa Ki-tô cứu khổ, bàn tay Ngài đã chữa cho bao nhiêu người bịnh tật, lời dạy của Ngài đã cải hóa bao nhiêu tâm hồn tội lỗi, bước của Ngài chưa đi khỏi xứ Do Thái mà hiện nay hình bóng Ngài hiện diện khắp cả hoàn cầu.

2. Chúa Ki-tô và việc xây dựng địa đàng

Tương tự, như các đấng giáo tổ khác, Chúa Ki-tô cũng dạy hai lãnh vực: nhơn đạo và thiên đạo.

Mục đích của nhơn đạo là xây dựng cho loài người một xã hội thái hòa, muốn thế con người phải tha thứ và hòa hiệp.

Ở Nhứt Kỳ Phổ Độ, tâm linh nhơn loại tiến hóa ở mức hết sức giới hạn, muốn cho con người đừng sát hại nhau, Thánh Mô-se chỉ đem lý nhân nào quả nấy để răn đe con người: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Câu này được định chế hóa làm nền tảng cho nhơn luật. Người nào gây thiệt hại cho người khác, thì phải bồi thường. Địa đàng là thiên đàng tại thế, người sống nơi đó là thiên thần hữu hình và luật pháp áp dụng là luật pháp của thiên thần. Chúa Ki-tô dạy: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mát-thêu 22: 37-39). Tình thương chính là luật pháp, ai không thương là phạm tội. Vì là luật của thiên thần, điều luật thương yêu này cho đến ngày nay vẫn chưa có bộ luật của thế gian nào ghi vào cả.

Thiên Chúa là Thầy. Học trò của Thiên Chúa là Thánh. Địa đàng là nơi con người chuẩn bị làm Thánh. Ai muốn thế hãy tôn trọng điều luật thương yêu và cứ thế hãy tha thứ và hòa hiệp cùng nhau.

“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mát-thêu 5: 23-24)

Cho nên, chúng ta phải luôn luôn tha thứ cho nhau và không chỉ tha thứ một lần, mà phải tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mát-thêu 18:22).

Cho đến hôm nay, dù thế gian chưa trở thành địa đàng, điều đó không trở ngại cho việc hiện diện của nhân loài trên cõi thiên đàng. Ai sống như lời Chúa dạy sẽ lên Thiên Đàng.

3. Nẻo lên Thiên Đàng

Và kìa có một người đến thưa Ðức Giê-su rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Ðấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.’ Người ấy hỏi: ‘Ðiều răn nào?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.’ Người thanh niên ấy nói: ‘Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.’ Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.” (Mát-thêu 19: 16-22)

Chúng ta thấy từ nhơn đạo bước lên thiên đạo cần có một chuyển hóa tâm linh, một sự thăng hoa của con tim và khối óc, trái tim con người phải chết đi vì nó rất nguy hiểm (nhơn tâm duy nguy) thì nhịp đập nhẹ nhàng của trái tim đạo đức chúng ta mới có thể biết được (đạo tâm duy vi).

Thiên đạo là một sự chuyển hóa tình cảm. Lìa xa tính dục, hào quang thiên thần sẽ tỏ hiện.

Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt, nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn.” (I Cô-rin-tô 7: 38)

Ðàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa, họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời, họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác.” (I Cô-rin-tô 7: 32-34)

Thánh khiết là điều thứ nhất để bước lên Thiên Đàng.

Vi nhân bất phú. Hành được đạo người thì không giàu sang.

Chúa Ki-tô không khuyên chúng ta nhịn đói để học đạo, hãy ăn nhưng “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mát-thêu 6: 11) nếu còn lại, hãy đem phân phối cho mọi người.

Dư là giàu, giàu thì không đến được Thiên Đàng: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (Mát-thêu 19: 24)

Thanh bạch là điều kiện thứ hai để vào nước Thiên Đàng.

Thiên đạo, chính là tu học, sửa chữa. Không những sửa cử chỉ, sửa lời nói mà quan trọng hơn cả là cải tạo tư tưởng, nơi sâu kín không ai thấy được, đó là nguồn gốc của mọi tội lỗi.

Anh em đã nghe luật dạy rằng chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mát-thêu 5: 27-28)

Thiên đạo, chính là sống với nội tâm, sống với Đấng “đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin” (Mát-thêu 6: 8). Muốn sống với Thiên Chúa, chúng ta đừng “thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? ”. (Mát-thêu 7: 3)

Xả phú cầu bần. Xả thân cầu Đạo.

Ít có người cầu Đạo, ít có người thánh khiết, ít có người thanh bạch và những người ít có ấy, sống theo lời dạy của Chúa Ki-tô đã trở nên những bậc đại thánh.

Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (Sáng thế ký 3: 19). Thân xác của Chúa Ki-tô đã hòa trong sa mạc những Thiên tính trong xác ấy: “Bây giờ Thầy đến cùng Ðấng đã sai Thầy.” (Gioan 16: 5)

Chúa Ki-tô trở lại Thiên Đường. Chúa Ki-tô vẫn lo lắng cho những người ở lại:

Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Con xin thánh hiến chính mình con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” (Gioan 17: 16-19)

Phút tạm biệt

Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.” (Gioan 16: 12).

Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.” (Gioan 16: 28)

4. Chúa Ki-tô tái lâm trong Tam Kỳ Phổ Độ

Hỡi các môn đồ, Ta đã đến,

Đến bằng linh điển hợp thời này. * [1]

Chúa Kitô đến trên ngọn linh cơ trong thời Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài đến tại xứ Do Thái nữa chăng?

Này hỡi môn đồ khắp địa cầu,

Hãy tìm coi Chúa giáng nơi đâu?

Nơi đâu thánh địa kỳ ngươn hạ,

Thì Chúa lai lâm cứu khổ sầu. *

Dân tộc Việt Nam được ban trao sứ mạng tiền phong trong Tam Kỳ Phổ Độ và Chúa Ki-tô lâm trần tại đây.

Ta đến với một mùa Đông đầy giá rét,

Để hy sinh cứu rỗi cho nhân loài,

Ta lại đến trong cơn lửa bỏng dầu sôi,

Để cất tiếng từng hồi,gọi đàn chiên lạc lõng.

Chúa Cứu Thế muôn đời còn mãi sống,

Sống muôn đời và sống mãi muôn đời,

Việt Nam ơi! Hồng Lạc ơi!

Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị.[2]

Ơn Trên dạy chúng ta: “Thời gian có sau trước, pháp môn có tân cựu.” * Chúa Kitô dạy:

Thời này một Chúa, một Trời Cha,

Bốn biển anh em sống một nhà.

Tranh lợi tranh quyền tranh chiến mãi,

Chung ăn chung ở mới chung nhà.

Tinh thần có một linh quang điển,

Vật chất đừng chia rẽ sắc da.

Hiểu gốc hiểu căn là hiểu đạo,

Yêu thương nhơn loại ấy yêu Ta. *

Thời này, thời Tam Kỳ Phổ Độ, thời hội thông giữa tất cả tôn giáo, Thánh sử Lu-ca khi tháp tùng Chúa Ki-tô trở lại thế gian đã dạy: “Thánh rất mừng cho dân tộc Việt, tiến đến trình độ tinh thần đạo đức khá cao. Vậy mới xứng đáng là Đại Đạo của Trời Cha sáng lập. Không phân biệt màu da sắc tóc, tôn giáo phần hình thức, chỉ biết trọng một khối linh quang của Đức Chúa Trời. Như vậy là tất cả nhơn loại trên thế gian này đều là con chung của Đức Chúa Trời, không còn trong thành kiến tôn giáo hay một ranh giới quốc gia nào, chỉ lấy tinh thần có một mà thôi.” *

Cùng hôm ấy, Chúa Ki-tô lâm trần dạy:

Giê-su rất mừng cho dân tộc Việt Nam thấm nhuần Đại Đạo, ngày nay tiến đến cơ siêu thoát rất nhiều. Chẳng phải Thánh Đạo khi xưa của Giê-su không dạy những bí truyền. Tại vì lâu ngày chơn truyền sai lạc. Khi Ta giáng thế đúng tam thập niên[3] đến thọ pháp báp-têm với Jean Baptiste[4]. Giê-su phải tuyệt thực đúng bốn mươi ngày để khỏi bị ma quỷ cám dỗ. Biết bao điều đến làm cho Ta xiêu lòng ngả dạ nhưng nhờ Đức Cha Trời chiếu điển lành, Ta được trọn thân tâm mới đi ra truyền đạo. Mỗi lần Ta trắc ẩn điều nào thì Ta cũng đi nhập tịnh một lúc để tiếp điển mới hiểu thấu chơn truyền của Cha Ta chỉ giáo.

“Đến ngày hôm nay, nền Tiên Thiên với vai tuồng trọng trách nền Đại Đạo Cao Đài cứu thế buổi hạ nguơn cùng cuối. Chư môn đồ nữ nam muốn hữu dụng ngày tương lai thì phải cố công kềm tâm định tánh, tịnh luyện nguơn thần, trau sửa tâm thân cho thành một bộ máy tinh vi, hầu sau, ngày cùng cuối để Thiêng Liêng mượn xác hữu hình sử dụng ngày thanh quang tam nhựt. Ấy là ngày đại đồng phán xét thế gian đó.

Vậy cả môn đệ nam nữ coi chức vụ Thiêng Liêng là quan trọng, quyết chí tu phải rán thực hành, không nên thờ ơ với nhiệm vụ, phải thực hành cho đúng thì sau này mới được hữu dụng nghe mỗi môn đồ.” *

5. Đón Chúa Ki-tô, xin hãy dâng tâm trong sạch lên Người

Chúa Ki-tô đến, xin hãy dâng lên Người không phải chỉ lễ phẩm trang trọng mà với cả tấm lòng thánh khiết.

Từ thành La Mã bước sang đây,

Vật chất hữu hình lễ trọng thay!

Nhưng chẳng quý bằng tâm chánh đáng,

Giờ nay Ta giáng để phô bày. *

Hôm nay, ngày kỷ niệm Chúa Ki-tô giáng sinh: “Chúc tụng mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su.” (Khải Huyền 22: 21)

HUỆ Ý

[1] Những trích dẫn trên đây được đánh dấu * đều là thánh giáo trong đạo Cao Đài, tuy nhiên người viết không ghi rõ xuất xứ.

[2] Thánh thất Bàu Sen, 23-11 Đinh Mùi (24-12-1967).

[3] Ba mươi tuổi.

[4] Gioan Tẩy Giả.

CHÚA GIÊ-SU VÀ CON TRẺ


LẬP HẠNH

Đức Chúa Giê-su đã dạy các môn đồ nhiều điều liên quan đến thiếu nhi và đồng thời cũng tương đồng quan điểm với giáo lý các tôn giáo khác, kể cả Cao Đài.

Chúng ta có thể tìm hiểu các đoạn sau đây trong Kinh Thánh Tân Ước:

1. Mát-thêu (18: 1-5)

Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Ðức Giê-su rằng: ‘Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong nước Trời?’ Ðức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: ‘Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy.”

Trong giáo lý Cao Đài, chúng ta thường được các Đấng Thiêng Liêng dạy phải luyện tập cho tánh tình trở lại hồn nhiên, vô tư như đứa bé. Nó nhìn ngó sự vật chung quanh mà tâm không hề nảy sinh những tình cảm ưa ghét, giận vui, không hề biểu lộ một sự nghĩ suy, toan tính.

Đức Đông Phương Lão Tổ dạy: “Hãy xem cái nhìn đứa hài nhi xích tử [1] với nụ cười mà ai nhìn cũng dễ thương vì chính nó không biểu lộ ý nào khác hơn sự vô tư hồn nhiên của nó. Nó không có ý nghĩ đến giây phút sẽ đến để chờ đợi.” [2]

Đức Quan Âm cũng dạy tương tự: “Hãy nhìn xem một đứa hài nhi vừa thoát khỏi thai bào còn bản chất thiên lương trong sạch nào biết những vui buồn, thương ghét, ham muốn hoặc chán nản... Đến tuổi trưởng thành, bước chân vào ngưỡng cửa đời thì bao nhiêu hoàn cảnh bên ngoài chói sáng làm cho tâm linh trong sạch kia bị cấu nhiễm bởi danh, lợi, sắc, tài, lần lần hóa ra con người phàm phu tục tử.” [3]

Lời dạy của Đức Lão Tổ và Đức Quan Âm đã giải thích tại sao Đức Chúa dạy môn đồ phải sửa tâm như đứa trẻ mới được vào nước Trời. Tâm người càng nhỏ theo tuổi của đứa trẻ thì người càng trở nên lớn hơn trong nước Trời. Còn tiếp đón một trẻ nhỏ vì danh Chúa có nghĩa là tiếp đãi người hèn mọn (người thấp kém) để làm sáng đạo nghĩa của Chúa. Mặt khác đó còn có nghĩa là đem tâm tánh của trẻ nhỏ vào làm tâm tánh của mình, là thánh hóa mình, thì sẽ được gặp Chúa, gặp Trời.

2. Mát-thêu (19: 13-14)

Bấy giờ người ta dẫn trẻ em đến với Ðức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. Nhưng Ðức Giêsu nói: ‘Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.”

Điều này cho thấy Đức Chúa rất quí tâm hồn của trẻ thơ và luôn ưu ái với thiếu nhi.

Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng vậy, các trẻ luôn được Thầy, Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng yêu quí, chăm sóc từng chút. Thầy bảo phải quan tâm hướng dẫn các thiếu nhi từ lứa tuổi măng non.

3. Mát-thêu (19: 16-22)

“… có một người đến thưa Ðức Giê-su rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Ðấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn.’ Người ấy hỏi: ‘Ðiều răn nào?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.’ Người thanh niên ấy nói: ‘Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa?’ Ðức Giê-su đáp: ‘Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.’ Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.”

Đoạn này cho chúng ta thấy những điều kiện để được vào nước Trời sống đời đời không khác nhau giữa các tôn giáo.

- Vẫn là Ngũ Giới Cấm của Phật Giáo, của Cao Đài, nhưng ở đây chúng ta không thấy Chúa đề cập đến điều răn “không rượu thịt” có lẽ vì Ki-tô Giáo là đạo Thánh, ở giữa thế đạo và thiên đạo, bán xuất thế bán nhập thế, nên giai đoạn đầu chưa buộc trường trai.

Đức Thánh Khổng ở phương Đông cũng vậy. Khi còn lo việc thế, Ngài cũng dùng rượu để tỏ cái lễ và khi một miếng thịt cắt không ngay thì Ngài không dùng. Phần khác, phải chăng do ở vùng khí hậu lạnh, nhơn sanh cần ăn thịt, uống rượu để có đủ nhiệt lượng cho cơ thể nên Chúa chưa dạy phải kiêng rượu thịt?

Chúng ta lại thấy Chúa bảo người thanh niên phải hiếu thảo với cha mẹ mới được theo Chúa. Đạo Cao Đài cũng dạy rằng không có vị Phật, Tiên nào trên Thiên Đình lại từng là con bất hiếu với cha mẹ khi ở thế gian cả. Nho Giáo cũng dạy hiếu đạo làm đầu.

- Vẫn là tình huynh đệ đại đồng mà cả Nho Giáo, Ki-tô Giáo, Cao Đài Giáo đều đòi hỏi.

- Vẫn là đức hy sinh buông bỏ sự nghiệp của cải vật chất để có sự sống trường cửu.

Đó cũng là sự lựa chọn cần thiết phải có nơi người thanh niên ấy: hoặc chọn con đường hạnh phúc thế gian hoặc chọn con đường theo Chúa để sống ở nước Trời chứ không thể “bắt cá hai tay”.

Đó cũng chính là những yêu cầu mà các Đấng đã đặt ra cho mọi người giáo sĩ, tu sĩ các tôn giáo, cũng như trong Cao Đài.

LẬP HẠNH

[1] Hài nhi xích tử: Đứa trẻ sơ sinh còn đỏ hỏn.

[2] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 04 rạng 05-5 Đinh Tỵ (20-6-1977).

[3] Trúc Lâm Thiền Điện, 20-10 Quý Sửu (14-11-1973).